Bàn về hôn nhân

Nguyên văn

Người Đông Tứ Mệnh lấy vợ Đông Tứ Mệnh sẽ đông con, nhiều phúc, nếu lấy lầm vợ Tây Tứ Mệnh sẽ khó khăn về đường con cháu, vợ chồng bất hoà, kém về tài lộc. Ví dụ nam mệnh Khảm lấy nữ mệnh Tốn, Tốn là hướng Sinh Khí của mệnh Khảm nên vợ có thể sinh đến năm con trai, ăn ở hài hoà giúp được chồng, vun vén tốt gia đình. Nếu nam mệnh Khảm lấy nữ mệnh Cấn thì Cấn là hướng Ngũ Quỷ của mệnh Khảm tuy có sinh được hai con trai nhưng chồng vợ bất hoà, nghèo khó.

Người xưa thường nói “Tham Lang năm trai Cự ba chàng, Vũ Khúc Kim tin được bốn nam, Ngũ Quỷ Liêm Trinh trai hai đứa, Phụ Bật chỉ còn nửa phần nam, Văn Khúc Thuỷ tinh duy một gã, Phá Quân Tuyệt Mệnh chỉ cô đơn, Lộc Tồn không con người sống thọ, Sinh khắc dữ lành phải xem tường”, nên chọn vợ hợp mệnh là có căn cứ cũng như có được lại lộ hay hướng bếp hợp mệnh sẽ có thể suy đoán được đường con cháu suy hay vượng, đứt hay nối.

Như chồng Càn:

  • Nếu lấy vợ mệnh Đoài vợ được hướng Sinh Khí nên sinh năm con nhưng Càn Kim và Đoài Kim đối chọi với nhau nên chủ bất hoà.
  • Nếu lấy vợ mệnh Khôn sẽ được hướng Diên Niên (Phước Đức) nên sinh bốn con trai vợ chồng hoà mục. Cũng có người cho rằng “Càn Khôn là hoà hợp nhất” sẽ sinh được sáu con trai.
  • Nếu lấy vợ mệnh Cấn sẽ là hướng Thiên Y của chồng, có ba con trai.
  • Nếu lấy vợ mệnh Càn là hướng Phục Vị của chồng chỉ sinh được một nữ.
  • Nếu lấy vợ mệnh Ly là hướng Tuyệt Mệnh của chồng sẽ không có con cái. Lại thêm hành Hoả của Ly khắc hành Kim của Càn sẽ dẫn đến tình trạng chồng sợ vợ.
  • Nếu lấy vợ mệnh Khảm là hướng Lục Sát của chồng chỉ một con mà vợ chồng tranh chấp.
  • Nếu lấy vợ mệnh Chấn là hướng Ngũ Quỷ của chồng được hai con mà khó phát tài, lại thêm Càn khắc Chấn tức chồng hiếp đáp vợ.
  • Nếu lấy vợ mệnh Tốn là hướng Hoạ Hại của chồng thì chẳng khác gì dòng nước xâm thực vợ lười thường bị chồng lăng nhục.
  • Vợ Lộc Tồn (Hoạ Hại) không có con, vợ chồng được trường thọ.

Các mệnh khác đều loại suy từ đấy. Nhưng cần phải tính đến sự sinh khắc, cát hung của các sao xem có đúng vị trí đắc vị hay không để tìm cách cứu chữa, may ra có thể rộng đường con nối, thêm điều cát lợi. Phương pháp tính mệnh vợ chồng theo cách này còn có ích hơn so với phép tính “Lã tài hợp hôn” (Phép tính Lã Tài hợp hôn là một phương pháp tính toán mức độ phù hợp của hôn nhân do Lã Tài đời Đường xác lập nên, dựa trên cung mệnh Cửu cung của người nam và nữ nhằm làm căn cứ để từ chối các yêu sách cầu hôn của ngoại tộc với tông thất nhà Đường) trong lịch “Thông thắng”, ta nhiều lần tính thử đều thấy phương pháp này là chính xác và ứng nghiệm hơn hết. Người đời khi tính chuyện hôn phối trước hết cũng nên lưu ý đến vấn đề này.

Chú thích: Phương pháp tính “Lã Tài hợp hôn” về cơ bản cũng xuất phát từ bài vè “Du Niên Ca” nên các khái niệm Sinh Khí, Thiên Y, Ngũ Quỷ, Tuyệt Mệnh đều tương tự. Trong cách tính “Lã Tài hợp hôn”, Phúc Đức chính là Diên Niên, Quy Hồn chính là Phục Vị, Du Hồn chính là Lục Sát, Tuyệt Thể chính là Hoạ Hại, tên gọi tuy khác nhưng bản chất tương đồng. Thế nhưng kiểm tra những số của Cửu cung ghi phía dưới mỗi cung thì thấy số của Sinh Khí, Du Hồn, Tuyệt Mệnh, Quy Hồn đều trùng khớp nhưng số của Phúc Đức, Thiên Y, Tuyệt Thể, Ngũ Quỷ đều sai lệch đó là do người sau lấy ngoa truyền ngoa, không khảo cứu nguồn gốc chỉ bắt chước theo chứ không hiểu biết.

Lại không hiểu trong Bát Quái thì Càn, Đoài sinh từ Thái DƯơng, Ly, Chấn sinh từ Thiếu Âm, Tốn, Khảm sinh từ Thiếu Dương, Cấn Khôn sinh từ Thái Âm. Tức hai Thái sinh ra Tây Tứ, hai Thiếu sinh ra Đông Tứ đó chính là nguồn gốc của sự phân chia mệnh quẻ và trạch mệnh. Mà tính chất cát hung của các sao đều là các quẻ biến hoá mà ra, xét về lý cố nhiên có căn cứ, xét về số cũng có gốc để tra xét, cớ sao lại lầm lẫn cái nguồn mà làm rối cái ngọn? Nên cần phải làm đính chính phụ thêm vào phía sau.

Còn về cách tính Giáp Tý Thượng Nguyên xuất phát từ cung 1, sách “Thời Hiến” hiện nay không ghi chép về số cung mệnh nam nữ để tính toán hôn nhân mà quan niệm xưa cho rằng Thượng Nguyên xuất phát từ cung 7, khác với cách tính ngày nay. Cũng có người nói rằng khảo sát trong sách “Trúc thư kỷ niên” thấy thời gian có sai lệch một nguyên, năm Giáp Tý Khang Hy là bắt đầu Hạ Nguyên. Không biết là ai đúng ai sai nên rốt cuộc vẫn lấy lịch Thời hiến làm chuẩn.

Giải thích

Đoạn văn này đã chuyển sang trình bày về một vấn đề khác đó là hôn nhân. Phong thuỷ Bát Trạch cho rằng hôn nhân cũng gắn liền với cung mệnh, nguyên tắc chung vẫn là Đông Tứ Mệnh nên lấy vợ Đông Tứ Mệnh, nam Tây Tứ Mệnh nên lấy vợ Tây Tứ Mệnh. Dưới đây là những sự kết hợp tốt đúng mệnh:

  • Nam mệnh Khảm lấy nữ mệnh Tốn, nam mệnh Tốn lấy nữ mệnh Khảm.
  • Nam mệnh Càn lấy nữ mệnh Đoài, nam mệnh Đoài lấy nữ mệnh Càn.
  • Nam mệnh Ly lấy nữ mệnh Chấn, nam mệnh Chấn lấy nữ mệnh Ly.
  • Nam mệnh Cấn lấy nữ mệnh Khôn, nam mệnh Khôn lấy nữ mệnh Cấn.
  • Nam mệnh Càn lấy nữ mệnh Khôn, nam mệnh Khôn lấy nữ mệnh Càn.
  • Nam mệnh Khôn lấy nữ mệnh Đoài, nam mệnh Đoài lấy nữ mệnh Khôn.
  • Nam mệnh Chấn lấy nữ mệnh Khảm, nam mệnh Khảm lấy nữ mệnh Chấn.
  • Nam mệnh Chấn lấy nữ mệnh Tốn, nam mệnh Tốn lấy nữ mệnh Chấn.
  • Nam mệnh Càn lấy nữ mệnh Cấn, nam mệnh Cấn lấy nữ mệnh Càn.
  • Nam mệnh Tốn lấy nữ mệnh Ly, nam mệnh Ly lấy nữ mệnh Tốn.
  • Nam mệnh Đoài lấy nữ mệnh Cấn, nam mệnh Cấn lấy nữ mệnh Đoài.
  • Nam mệnh Ly lấy nữ mệnh Khảm, nam mệnh Khảm lấy nữ mệnh Ly.
  • Nam mệnh Càn lấy nữ mệnh Càn, nam mệnh Tốn lấy nữ mệnh Tốn.
  • Nam mệnh Đoài lấy nữ mệnh Đoài, nam mệnh Khảm lấy nữ mệnh Khảm,
  • Nam mệnh Ly lấy nữ mệnh Ly, nam mệnh Cấn lấy nữ mệnh Cấn.
  • Nam mệnh Chấn lấy nữ mệnh Chấn, nam mệnh Khôn lấy nữ mệnh Khôn.

Những kết hợp khác đều là không tốt.

Người xưa rất coi trọng con nối dõi, tục ngữ có câu ” Bất hiếu giả tam, vô hậu vi đại” (bất hiếu có ba điều, không có con là bất hiếu nhất). Vì vậy theo quan niệm của người xưa, số lượng con cái nhiều hay ít chính là một tiêu chuẩn cực kỳ quan trọng để đánh giá độ mỹ mãn của một cuộc hôn nhân. Do đó, khi tính toán về hôn sự người xưa thường nghiêng về lựa chọn những cặp đôi kết hợp lợi về đường con cái như nam mệnh Càn lấy nữ mệnh Đoài được hướng Sinh Khí số mệnh sẽ được năm con trai. Chỉ có điều Càn thuộc Kim, Đoài cũng thuộc Kim hay Kim đối chọi nhau chủ về chồng vợ bất hoà. Nam mệnh Càn lấy vợ mệnh Khôn hoặc nam mệnh Khôn lấy vợ mệnh Càn là những kết hợp lý tưởng nhất vì Càn cha Khôn mẹ vốn là tiêu chuẩn của vũ trụ sẽ đông con nhiều phúc. Có nhiều sự kết hợp không những không có con nối dõi mà còn chủ về chồng sợ vợ như nam mệnh Càn lấy vợ mệnh Cấn là một kết hợp rất xấu không những không có cả con trai lẫn con gái mà chồng còn bị vợ khinh khi.

 

 

Lưu Dược Sư

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *